Kiến thức

Trở về

Các loại trái phiếu

Có hai loại trái phiếu thường được nhắc đến là trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp. Tuy nhiên, mỗi loại trái phiếu lại được phân thành nhiều loại khác nhau. Đối với trái phiếu chỉnh phủ, nhà đầu tư quan tâm đến thời hạn của trái phiếu. Trái phiếu có thời hạn dưới 12 tháng gọi là tín phiếu, thường do Kho bạc phát hành nên được gọi là tín phiếu kho bạc. Trái phiếu trung hạn có thời hạn 1-5 năm và trái phiếu dài hạn kéo dài trên 5 năm. Trái phiếu chính phủ nói chung rất an toàn và hầu như không có khả năng vỡ nợ nên thường được gọi là trái phiếu phi rủi ro. Đổi lại, lợi suất của trái phiếu này thường thấp và chỉ nhỉnh hơn tỷ lệ lạm phát.

Trái phiếu công ty hay trái phiếu doanh nghiệp thường có lợi suất cao hơn vì rủi ro đối với các trái phiếu này cao hơn so với lợi suất của trái phiếu chính phủ cùng kỳ hạn. Trái phiếu doanh nghiệp thường là trái phiếu dài hạn vì các doanh nghiệp thường bị các ngân hàng thương mại hạn chế cho vay dài hạn. Các khoản vay dài hạn của doanh nghiệp các khoản vay lớn và thời hạn dài nên thường vượt quá khẩu vị rủi ro của các ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp chỉ phụ thuộc vào ngân hàng thương mại ở phần vốn lưu động. Lợi suất khi đầu tư vào trái phiếu công ty phụ thuộc vào thời hạn, biến đổi lãi suất trên thị trường và rủi ro vỡ nợ. Đối với hai trái phiếu cùng thời hạn và cùng chung bối cảnh của lãi suất, rủi ro vỡ nợ là yếu tố quyết định sự khác biệt về lãi suất của hai trái phiếu.

Để tăng tính cạnh tranh và hấp dẫn, một số trái phiếu được phát hành kèm điều khoản có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông của doanh nghiệp (convertible bond). Điều khoản này cho phép nhà đầu tư chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu phổ thông sau một khoảng thời gian nắm giữ nhất định. Tỷ lệ chuyển đổi có thể là cố định hoặc thay đổi tùy theo điều khoản phát hành trái phiếu. Ví dụ, doanh nghiệp phát hành có thể quy định một trái phiếu mệnh giá $1000 có thể chuyển thành 30 cổ phiếu phổ thông sau sáu tháng phát hành. Điều khoản chuyển đổi mang đến cơ hội thu lợi cao hơn cho nhà đầu tư, đặc biệt khi cổ phiếu của doanh nghiệp phát hành tăng giá. Vì vậy, lãi suất coupon định kỳ của trái phiếu chuyển đổi thường thấp hơn lãi suất coupon của trái phiếu thường.

Ngược với điều khoản chuyển đổi, điều khoản thu hồi lại cho phép doanh nghiệp phát hành tự động mua lại trái phiếu của nhà đầu tư sau một khoảng thời gian nhất định. Điều khoản này cho phép doanh nghiệp tận dụng cơ hội lãi suất giảm trên thị trường bằng cách thu hồi trái phiếu đã phát hành với lãi suất cao và phát hành trái phiếu mới có lãi suất huy động thấp hơn. Đổi lại, trái phiếu có điều khoản triệu hồi có lãi suất cao hơn so với lãi suất của trái phiếu thường.

Lê Kim Hoa, BA